October 28, 2010

Khánh thành ngôi nhà đắt nhất thế giới và bức tranh phản diện của Ấn

Hôm nay, 28-10, ngôi nhà riêng đắt nhất thế giới của tỷ phú giàu nhất Ấn Độ, Mukesh Ambani, chính thức làm lễ khánh thành. Được biết, ông sẽ mời 1000 thực khách đến dự trong dịp khai trương này.
Ngôi nhà 27 tầng, toạ lạc tại khu trung tâm thành phố Mumbai, trị giá 1 tỷ dollar, được các tạp chí nổi tiếng thế giới cho là đắt nhất thế giới.
Ngôi nhà có tên là Antilia này được xây dựng lấy theo cảm hứng thiết kế từ vườn treo Babylon với mặt trước nhìn ra biển Ả rập, xung quanh được bao bọc bởi một thảm thực vật phong phú và có thể nhìn thấy từ mọi góc nhìn của thành phố Mumbai.
Toà nhà được khởi công từ năm 2003, cao 173 m với tổng diện tích lên tới 37,000 m2. Với chiều cao 27 tầng, trong đó 6 tầng ga ra và 9 chiếc thang máy, cao ốc này được người giàu thứ năm thế giới Mukesh Ambani xây dựng làm nơi ở cho gia đình gồm hai vợ chồng và ba người con của mình.


Mukesh Ambani còn cho xây một rạp chiếu bóng mini trong toà nhà này. Bên ngoài rạp còn có  một phòng rượu, một quầy snack bar và không gian giải trí, bao gồm cả những chiếc đi văng và bàn ăn. Toà nhà này  còn có một bể bơi và một phòng tập yoga. Thậm chí, Ambani còn có cả một phòng lạnh tràn ngập những bông tuyết tự tạo.




Tầng trên cùng là một khu vực đa năng, vừa là  mái che, vừa là không gian giải trí với phong cảnh nhìn ra chân trời cũng như một phần của biển Ả rập. Một khu phòng kín với vách kính từ sàn đến trần được trang bị điều hoà không khí là một nơi thư giãn lý tưởng để vừa được ngắm cảnh mà không bị ảnh hưởng của thời tiết bên ngoài. Sân thượng của ngôi nhà còn có thể đáp được 3 chiếc trực thăng.


Mukesh trở thành tỷ phú tiếng tăm  sau khi thừa kế tài sản két xù do cha ông để lại, tập đoàn Reliance. Đế chế Reliance trị giá nhiều tỷ USD đã bị xé lẻ vào năm 2005, sau “cuộc chiến” kéo dài 7 tháng giữa hai anh em nhà Ambani, Mukesh và Anil. Hai người được thừa kế tập đoàn này sau cái chết của cha, ông Dhirubhai Ambani, vào năm 2002. Vì người cha không để lại di chúc, trong khi hai anh em luôn mâu thuẫn, nên mẹ họ, bà Kokilaben Ambani, đã phải đi đến quyết định đau lòng là xé lẻ tâm huyết cả đời gây dựng của chồng - tập đoàn công nghiệp Reliance - chia cho hai anh em quản lý.
Ambani anh đã phát triển Reliance Energy thành một tập đoàn năng lượng hùng mạnh, cung cấp điện cho thủ đô Delhi và thành phố Mumbai và là nhà tài phiệt dầu mỏ ở Ấn. Trong khi đó, công ty Reliance Communications của Ambani em cũng là một trong những doanh nghiệp viễn thông lớn nhất Ấn Độ.
Hai anh em của ông thường xảy ra “khẩu chiến” trên truyền thông Ấn Độ và thông thường người đứng ra giảng hoà là thủ tướng Ấn.



Mukesh Ambani hiện được tạp chí Forbes bầu chọn là tỷ phú giàu đứng hàng thứ 4 thế giới với 29 tỷ dollar.
Ấn Độ bắt đầu phát triển nhanh từ năm 1991, khiến càng nhiều người trở nên giàu có. Hiện tại, họ đang có 69 tỷ phú và năm ngoái số người triệu  phú tăng thêm 42, 800.
Giàu có là chuyện đáng tán dương khi các nhà tỷ phú hay triệu phú kiếm tiền bằng đường lối đầu tư khôn ngoan và cạnh tranh công bằng. Tuy nhiên, điều đáng nói là các tỷ phú Ấn Độ có tấm lòng vị tha rất nghèo nàn. Chúng tôi chưa bao giờ nghe một tỷ phú Ấn nào đó bỏ tiền ra làm từ thiện.
Trong khi các tỷ phú Mỹ như Bill Gates, Warren Buffet,... đang cống hiến thời gian và gần như toàn bộ tài sản cho hoạt động từ thiện thì các tỷ phú Ấn gần như “án binh bất động”.
Mới đây, Bill gates đã sang Ấn để mở chi nhánh cứu trợ cho người nghèo, đặc biệt tại các bang Bihar, Uttar Pradesh và cất tiếng kêu gọi các tỷ phú Ấn ủng hộ các hoạt động này nhưng các đại gia Ấn vẫn “giả điếc” làm ngơ, quay lưng lại ngay với đồng hương của mình.
Trong khi con số nghèo đói tại Ấn Độ đang tăng cao, hàng triệu triệu người đang chen chút trong các khu ổ chuột, không có nước sạch sử dụng, trẻ em dưới 5 tuổi thiếu ăn chiếm hàng cao nhất thế giới, 42 %...thì con số nhà tỷ phú hay triệu phú Ấn tăng cao không nên là niềm hãnh diện, trái lại là niềm tủi nhục.
Ấn Độ đang đạt mức tăng trưởng kinh tế cao, 8.5 %, nhưng đó chỉ là tảng băng nổi của tầng lớp trên. Con số đó không ý nghĩa gì với hàng trăm triệu người có cuộc sống một ngày như mọi ngày, chỉ vài cái chapati.
Vì vậy, việc khánh thành ngôi nhà xa xỉ, 1 tỷ dollar, và cần 600 người phục vụ so sánh với cảnh hàng trăm triệu người chen chút trong các khu ổ chuột tồi tàn là một bức tranh phản diện của xã hội Ấn Độ.
Làm gì để cải thiện bức tranh ấy? Giáo lý vô ngã vị tha, hạnh bố thí của Phật giáo nếu đem giáo hoá các đại gia này, xem ra, là một trong những giải pháp hữu hiệu. Tuy nhiên, làm sao giáo lý ấy đến tai của họ khi mà Phật giáo hiện tại có sức ảnh hưởng yếu ớt trên quê hương của mình - vẫn là câu hỏi lớn.












-->Đọc thêm...

October 25, 2010

Lễ Hội Diwali


Nếu bạn thắc mắc là người Ấn có ăn Tết như ta không, Tết của họ diễn ra khi nào và như thế nào, thì câu trả lời là họ cũng có Tết như ta. Đó là lễ hội Diwali.
Diwali hay Deepawali (Sanskrit:Dīpāvali) nghĩa là “Lễ Hội Ánh Sáng” (Festival of Lights). Đó là Lễ hội quan trọng gồm 5 ngày của đạo Hindu, đạo Sikh và đạo Jain. Lễ hội diễn ra vào khoảng giữa tháng 10 đến giữa tháng 11. Khởi điểm là một Lễ hội của 3 tôn giáo, nhưng vì tín đồ của đạo Hindu chiếm đa số (80%) dân số[1] của Ấn Độ nên sức ảnh hưởng của Lễ hội lan rộng khắp dân tộc Ấn, trở thành Quốc Lễ của Ấn Độ, Nepal và là ngày Lễ chính thức của một số quốc gia có đông cộng đồng Ấn kiều như Guyana, Tridiad & Tobago, Mauritius, Malaysia, Singapore, Sri Lanka, Fiji và Surinam.
Trong truyền thống Hindu, Diwali đánh dấu sự kiện thần Lama (vốn là một vị vua, hoá thân của thần Vishnu) trở về vương quốc Ayodha[2] sau khi đánh bại bạo chúa Ravana, cai trị xứ Lanka, trong sử thi Rāmāyaṇa[3]. Với đạo Jain, Diwali là lễ tưởng niệm sự giác ngộ của giáo chủ Mahavira (Đại Hùng, vị Đạo Sư cùng thời với Đức Phật Thích Ca) năm 527 TCN. Diwali, theo đạo Sikh, là lễ kỷ niệm sự trở lại của Guru Har Gobind[4] sau khi giải phóng 52 vị vua Hindu bị cầm tù bởi hoàng đế Jahagir tại thành Gualior; và do vậy, Diwali cũng là ngày “Giải Phóng Tù Nhân”.



Ý nghĩa quan trọng của Diwali, theo triết lý Hindu, là ngoài thắp sáng đèn nến bên ngoài phải ý thức được “ánh sáng bên trong”. Diwali là Lễ hội đánh thức Tiểu ngã (Atman) vốn là bản tánh chân thật, trường tồn, bất biến, vô biên tế của mỗi cá nhân để chiếu sáng, xua tan chướng ngại, đẩy lùi ngu muội, hầu mang lại an vui, hòa bình và cuối cùng là mang Tiểu ngã (Atman) hoà đồng với Đại ngã (Brahman).



Theo lịch Hindu, Lễ hội gồm hơn 5 ngày với ý nghĩa mỗi ngày như sau:
1.      Ngày đầu tiên gọi là Vasu Baras (ngày 12 của nửa tháng còn lại của tháng Ashvin-tháng 7 lịch âm Hindu). Baras có nghĩa là thứ 12, Vasu có nghĩa là bò cái. Vào ngày này bò cái và con bê được tôn thờ.
2.      Ngày thứ hai gọi là Dhanatrayodashi (dhana: giàu có; tryodashi:thứ 13). Ngày này rơi vào ngày thứ 13 của nửa tháng còn lại của tháng 7 lịch Hindu. Đây là ngày sinh của thần Dhanvantri và cũng được xem là ngày may mắn để mua dụng cụ và vàng bạc.
3.      Ngày thứ ba có tên là Naraka Chaturdashi (Nakara: tên vị thần, Chaturdashi:thứ 14), là ngày kỷ niệm thần Krishna, một hoá thân của thần Vishnu, tiêu diệt ác thần Nakarasura.
4.      Ngày thứ tư, Lakshmi puja. Vào ngày ngày quan trọng này, người Hindu thờ cúng nữ thần Lakshmi, nữ thần thịnh vượng, và thần Ganesh, thần may mắn, rồi thắp đèn trong nhà và ngoài đường để nghinh đón sự thịnh vượng và hạnh phúc.
5.      Ngày thứ năm, Govardhan puja, là ngày tưởng niệm thần Krishna đánh bại thần Indra (thần chiến tranh, mưa, bão) và chuyển dời đồi Govarhan để cứu bà con của ông cùng súc vật từ mưa và lũ. Người đàn ông tặng quà cho vợ mình trong ngày này.
6.      Ngày thứ sáu, Bhaiguj, là ngày các anh chị em gặp nhau để bày tỏ tình thương yêu với nhau. Truyền thống này dựa vào câu chuyện thần chết, Yama, gặp em gái Yami. Yami đã thiết tiệc đãi anh mình bằng món Aarti. Khi chia tay, Yama đã tặng em mình một món quà để tỏ sự biết ơn.
Những hoạt động chính của Lễ hội là gia đình tụ họp, trang hoàng nhà cửa sạch đẹp. Nhiều loại đèn chiếu sáng được trang trí trước nhà. Đến dịp Lễ, người ta diện quần áo mới đẹp, đi đến đền để cúng thần, dâng lên những lời cầu nguyện, sau đó họ về nhà vui vầy những bữa tiệc thịnh soạn, chia nhau những thức ăn ngọt, thăm viếng và chúc phúc với láng giềng. Nhiều lúc, người dân đổ ra đường nhảy múa theo tiếng trống ầm ĩ. Ở điểm này, tôi thấy không có dân tộc nào thích nhảy múa bằng dân tộc Ấn.
Điểm nổi bật nhất của Lễ hội chính là đốt pháo. Trong suốt những ngày Lễ hội, đi đâu cũng nghe tiếng pháo. Tại các tiệm pháo người ta bày bán đủ loại pháo, có những loại pháo có âm thanh lớn như tiếng mìn nổ. Các trẻ em bận rộn suốt ngày với việc đốt pháo.






Một số loại pháo tại Ấn

Diwali cũng là dịp để những nhà giàu phô trương của cải của mình bằng việc tổ chức tiệc linh đình và đốt liên tục những loại pháo hoa đắt tiền, với nét mặt tươi cười mãn nguyện. Gần đấy, những đứa trẻ con nhà nghèo lăng xăng nhặt nhạnh những hộp đựng pháo và xác pháo rơi tơi tả để ngày mai đem đổi lấy vài cái chapati mong sống cho hết một kiếp hoang vu trên mặt đất. Thân thể gầy gò, đen đúa, đôi mắt ngưỡng mộ cộng với sự sợ sệt của chúng trước âm thanh ầm ầm của tiếng pháo, trước sự tự tin, hãnh diện của những đứa con xinh xắn trắng trẻo của những gã nhà giàu phì nộn đang loay hoay đốt pháo tạo nên một bức tranh tương phản và một câu hỏi muôn đời của dân tộc Ấn. Câu hỏi ấy đã được trả lời cách đây hơn 2,500 năm bởi một Người Ấn Độ phi thường, Đức Phật Thích Ca. Ngài đã xoá bỏ mọi giai cấp bằng việc tuyên bố: “không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn.” Cánh cửa Chánh Pháp của Ngài mở toang cho những ai muốn vào, không phân biệt vua chúa hay tiện nhân. Ngài xác nhận khả tính chứng ngộ của mọi người là như nhau và con người trở nên cao sang hay hèn tiện chính là do hành động tạo tác (karma) của mọi người. Sức ảnh hưởng của những Lời dạy minh triết đã cải cách xã hội một cách triệt để khi mà nơi nào có dấu chân Ngài, nơi đó không thấy có sự phân biệt giai cấp và một vị Tỳ-kheo thuộc giai cấp thấp cũng được quốc vương quỳ lạy để dâng thực phẩm cúng dường. Tiếc rằng, sức ảnh hưởng của những Lời dạy ấy chỉ vang vọng ở xã hội Ấn hơn 1,500 năm rồi suy tàn, để rồi ngày nay thừa hưởng Gia tài quý giá ấy chỉ còn là cộng đồng thiểu số ngưới Ấn [5].
Nhìn chung, Diwali là một truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Ấn. Nó thể hiện sự tôn kính thiêng liêng dâng lên Thánh Thần, sự đánh thức những giá trị đạo đức tiềm ẩn của con người, sự cảm thông thương yêu của con người, sự khát khao được thịnh vượng và hạnh phúc của họ. 
Những ngày đó, đêm nằm nghe tiếng pháo nổ râm ran, gợi lên cảm giác như không khí Tết tại quê nhà của người xa xứ cầu học như tôi. Thủa thiếu thời, mỗi lần Tết đến, tôi không sao ngủ được, ngồi dậy cùng Mẹ đẩy những que củi vào bếp lửa hừng cháy đang nấu nồi bánh chưng, bánh tét. Nhà trên, mùi hương trầm tỏa nghi ngút từ bàn thờ Phật và Gia tiên đã bày biện hoa quả và dưa hấu trang nghiêm. Đêm ấy, cứ trông mau đến sáng để được mặc quần áo mới, đi đánh bầu cua và đốt pháo cùng chúng bạn…
             ..…..  Nghe tiếng pháo nổ râm ran càng nhớ. Nhớ lắm. Nhớ cồn cào!



[1]  Theo số liệu mới nhất của Cục Kiểm Kê Dân Số Ấn Độ, đạo Hindu chiếm 80.5 % dân số Ấn, tức 827,578,868 người.
[2] Tên một vương quốc cổ tại bang Bihar. Ayodha cũng được xem là Thánh địa của người Hindu.
[3] Rāmāyaṇa và  Mahābhārata là hai cuốn sử thi bằng tiếng Sanskrit của đạo Hindu, hình thành từ tk thứ 4 TCN đến tk 4 SCN. Từ hai cuốn sử thi này có thể biết nhiều thông tin về lịch sử và văn hoá Ấn Độ.
[4] vị Guru thứ 6 trong 10 vị Guru của đạo Sikh, trở thành Guru vào ngày 25-05-1606.
[5] Theo số liệu mới nhất của Cục Kiểm Kê Dân Số Ấn Độ, đạo Phật chiếm 0.8 % dân số Ấn, tức 7,955,207 người.



Xua tan bóng tối



Xua đuổi sự u tối và không may mắn

Diwali 2007 tại Delhi

Diwali tổ chức cho Sinh viên quốc tế tại nhà riêng của Hiệu phó ĐH Mumbai





Các tiết mục tại buổi lễ

Sinh viên quốc tế dự lễ

Bắn pháo hoa tại Mumbai

-->Đọc thêm...

October 8, 2010

Phóng sự Hội Thảo Bán Niên Quốc Tế về Thiền tại Somaiya




Vào thượng tuần tháng 9 DL, sau khi những cơn mưa xối xả, trắng trời Mumbai đã đi qua, nhường lại cho cho sự bừng dậy của vạn vật, cây cối trong cái nắng mới của tiết trời chớm thu, cũng là lúc thích hợp để các nhà nghiên cứu, hành giả Phật giáo khắp nơi trên thế giới đổ về “Thủ đô thương mại” của Ấn Độ để tham dự hội thảo.
Hội thảo Bán Niên Quốc Tế lần thứ 6 về chủ đề “Thiền Phật giáo:kinh văn, truyền thống và thực tập” đã được đăng cai tổ chức bởi Hội đồng điều hành Viện nghiên cứu Phật học Somaiya, thuộc ĐH Mumbai. Các đơn vị liên kết đồng tổ chức gồm: Uỷ ban giao lưu văn hoá Ấn độ (ICCR, thuộc chính phủ Ấn độ), Tân Đại học Nalanda, Đại học Phật giáo Việt Nam, khoa Triết và Pali (ĐH Mumbai).
Hội thảo 3 ngày (từ ngày 3 đến ngày 5/9) đã long trọng chính thức khai mạc vào lúc 9:30 ngày 3/9/2010 tại Viện Nghiên Cứu Phật học Somaiya, khuôn viên Somaiya Campus của ĐH Mumbai với sự tham dự của hàng trăm Tăng Ni, giáo sư, học giả, nghiên cứu sinh, sinh viên, và nhân sĩ  trí thức tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.
Chủ tọa đoàn và Thượng khách 

Đoàn Việt Nam do gồm 5 đại biểu do Đại đức Tiến sĩ Thích Nhật Từ hướng dẫn, HT Thích Gíac Toàn làm trưởng đoàn.
Buổi khai mạc đã được mở đầu bởi nghi thức tụng kinh cầu nguyện bằng tiếng Pali và Sankrit.Tiếp theo là nghi thức Thắp Nến và lời chào mừng các vị đại biểu và toàn thể hội chúng của ban tổ chức. Buổi lễ được tiếp nối bằng lời phát biểu khai mạc của các vị thượng khách và ban tổ chức. Lễ khai mạc đặc biệt ấn tượng bởi sự hiện diện và phát biểu của thống đốc bang Bihar, ông H.E.D. Konwar. Ngoài việc khen ngợi, chúc mừng và cầu chúc cho Hội thảo thành công tốt đẹp, ông còn nhấn mạnh về bang sở tại của minh: “Bihar là bang nghèo nhất của Ấn độ, nhưng là bang đóng góp nhiều nhất về tâm linh cho Ấn độ và cả thế giới bởi sự xuất hiện và truyền bá Chánh Pháp của đức Phật Tổ Gotama”.

Thắp Nến cầu nguyện



Thống đốc bang Bihar H.E.D Konwar phát biểu

Buổi chiều, Hội thảo đã tiến hành bằng session thứ nhất, Ấn Độ. Tiếp theo là session Sri lanka và Thái Lan. Buổi tối, lúc 6:30 p.m-7:30 p.m, màn trình diễn văn hoá Ấn Độ,  do Ban Văn Hoá thuộc chính phủ Maharastra đảm trách, diễn ra thật hoành tráng và mang đậm bản sắc.
Ngày thứ 2, hội thảo tiến hành bằng các Session: Cam-pu-chia và Lào, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc.
Ngày cuối cùng ( 5/9) của hội thảo đã mở đầu bằng việc tập trung thảo luận đề tài “Thiền Đại thừa với tiêu điểm Đạo Nguyên (Dogen)”, tiếp theo là các session Tây Tạng, Việt Nam, Miến Điện.
Đoàn Việt Nam đã đóng góp 5 bài tham luận tập trung về lợi ích của thiền đối với cuộc sống hiện tại. Không có bài tham luận về 2 dòng thiền lớn, tiêu biểu và đang thịnh hành tại Việt Nam và trên thế giới. Đó là dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân Tôngg (1279-1293) thành lập bằng việc thống nhất 3  thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường; và dòng thiền Làng Mai do Thiền sư Nhất Hạnh lãnh đạo, vốn được tiếp lửa từ tổ Khương Tăng Hội (mẹ Ngài người Việt, sống vào khoảng thế kỷ thứ 3 sau CN). Hai dòng thiền này mang đậm bản sắc dân tộc Việt.
Hội thảo đã kết thúc cùng ngày và sau đó đã khởi hành đi tham quan 4 hang động Phật giáo tại Pune: Bhedsa, Karla, Bahaje, Kondane và thực tập thiền.
Điểm nổi bật của Hội thảo
- Hội thảo đã thu hút sự tham dự của hàng trăm giáo sư hàng đầu tai Ấn độ và thế giới. Nhiều giáo sư, học giả nổi tiếng tuy không có bài tham luận nhưng đã đến để chủ toạ, điều hợp, yểm trợ các buổi hội thảo.
- Dù ít hay nhiều, các truyền thống thiền Phật giáo, và phương pháp thực hành đã được trình bày.
- Thiền Vipassana được thảo luận nhiều hơn thiền Đại thừa. Điều này phản ánh thực tế sự kế tục và sức phổ biến của các hệ thống thiền trong xã hội hiện tại.
- Việc tổ chức đã thành công mỹ mãn như mong đợi từ khâu tiếp tân đến âm thanh, ánh sáng, chất lượng, v.v.
Hội thảo kết thúc trong không khí thiền vị, mang tính nhất trí và học thuật, như lời phát biểu cùa Viện trưởng K. Sankarnayan: “một người không thể tạo nên học thuật, nghiên cứu. Bằng cách đóng góp, liên kết, giao lưu chúng ta sẽ tạo nên môi trường học thuật, nghiên cứu thành công như hội thảo lần này.”
Riêng tôi, vừa hoan hỷ vì sự thành công tốt đẹp của hội thảo, lại vừa trăn trở vì những dòng thiền lớn tại Trung Quốc không được nhắc đến, đặc biệt là Tổ Bodhidharma (Bồ-đề-đạt-ma). Phật giáo đại thừa xuất phát từ Ấn độ nhưng phát triển rực rỡ trên mảnh đất Trung Hoa, với sự ra đời của Thập đại tông phái. Trong đó, thiền buổi đầu đã được dần dần mang vào bởi các đoàn truyền giáo nhưng thực sự định hình và nổi bậc bởi sự xuất hiện của Tổ Bodhidharma đầu thế kỷ thứ 6. Đến thời Đường, với sự xuất hiện của Lục tổ Huệ Năng và sau đó là sự ra đời của Ngũ Gia Thiền Phái, đã ngự trị đời sống tâm linh của người Trung thổ. Tiếc thay, Phật giáo đã suy vi vào cuối đời Thanh, và mặc dù có cuộc chấn hưng vào các thập niên đầu của thế kỷ 20, nhưng vì ngoại duyên tác động và sự khan hiếm anh hào Phật giáo nên không phục hồi nổi và các Thiền phái cũng chịu chung số phận. Chính vì Tổ sư thiền suy tàn ngay trên mảnh đất của nó nên các nước trong hệ truyền thừa cũng không vực dậy nổi, do vậy việc tiếp nối của tông phái này thật khiêm tốn. Đó cũng là lý do thiền Bodhidharma với chủ trương siêu phóng “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyên, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” hầu như không được nhắc đến trong hội thảo lần này. Tiếc thay!

Minh Toàn thực hiện



Nghiên cứu sinh ĐH Mumbai tham dự


Toàn thể Đại biểu

HT Gíac Toàn tặng quà cho Thống đốc bang Bihar

GS P.L Dhar chủ tọa

Ven Che Kinda thảo luận

GS. Somparn Promta hùng biện

GS. Anita Sharma, GS Akira Saito và học giả thông bác mọi truyền thống PG, GS. Charles Willemen chủ tọa

giờ ăn trưa

PGS A.K. Rana tại Hội thảo

GS. Kiyozumi Ishii, Hiệu trưởng ĐH Komazawa-Nhật chủ tọa

Tác giả khơi gợi tổ Bodhidharma tại Hội thảo

Dr. Ravindra Panth, Hiệu trưởng ĐH Tân Nalanda thảo luận

Đoàn ĐH  PGVN tại Hội thảo

PGS, hiện giảng dạy tại khoa Châu Á và Tỷ giảo Tôn giáo, Luther College, Mỹ thảo luận

Most Ven. Ashin Nanissara, Viện trưởng Học viện Phật giáo quốc tế Sitagu, Myamar và  GS. Niên trưởng M.V. Talim ra măt sách mới "Philisophy of Aesthetics"

Trình diễn văn hóa

Viện trưởng GS.  K.Sankarnarayan tổng kết và cảm tạ

Bế mạc, chụp hình lưu niệm

-->Đọc thêm...